Vừa qua, lực lượng chức năng tại nhiều tỉnh thành phát hiện tình trạng mua bán giấy đi đường, giấy xét nghiệm COVID-19 giả hay việc cấp giấy đi đường “khống” để cho một số người có thể qua chốt một cách dễ dàng mà không bị xử lý.
Điển hình, sáng 12/8, chốt kiểm soát dịch tại khu vực cầu Trường Đai (phường Thới An, quận 12, TP HCM) phát hiện anh P.M.K. (SN 1991, trú tại Trà Ôn, Vĩnh Long) mang theo 7 “Giấy xác nhận đi lại do yêu cầu công việc” có đóng dấu và chữ ký của đại diện Cty TNHH thực phẩm N.G, địa chỉ ở đường Lê Đức Thọ (quận Gò Vấp, TP HCM).
Tuy nhiên, trên giấy để trống nhiều mục, không có thông tin của người được xác nhận. Anh K. cho biết, đang trên đường giao số giấy tờ cho khách hàng quen của Cty, để họ tự điền thông tin nhằm qua các chốt kiểm soát dịch.
Tương tự, ngày 6/8, Công an quận Thanh Xuân (Hà Nội) phát hiện 3 thanh niên là T.Đ.L (SN 1993), Đ.V.B (SN 1987) và Đ.H.T (SN 1993; cùng trú tại quận Hoàng Mai, Hà Nội) mang theo 9 giấy đi đường mua tại hiệu cầm đồ trên đường Láng (Đống Đa) với giá 12 triệu đồng để qua chốt kiểm soát.
Liên quan đến hành vi trên, luật sư Đặng Văn Cường – Đoàn luật sư TP Hà Nội cho biết, hiện nay, tình hình dịch bệnh đang diễn biến phức tạp nên cơ quan chức năng áp dụng một số biện pháp như hạn chế đi lại của người dân vì lợi ích chung là phòng, chống dịch COVID-19.
Tuy nhiên, có một số người sử dụng giấy tờ không đúng quy định, giấy tờ giả nhằm hợp thức hoá thủ tục để được qua chốt kiểm soát dịch vì lợi ích cá nhân. Rõ ràng, lợi ích thì chưa thấy đâu nhưng hậu quả thì đã nhìn thấy là ngoài việc bị xử phạt hành chính thì họ còn có thể bị xử lý hình sự về hành vi vi phạm của mình. Ngoài ra, bản thân họ cũng có nguy cơ bị mắc bệnh cũng như làm lây cho người thân.
Luật sư Cường phân tích, trong trường hợp lực lượng chức năng xác định các cơ quan, tổ chức cấp giấy đi đường cho người không làm việc tại đơn vị có thể bị xử lý hình sự về hành vi giả mạo trong công tác theo quy định tại Điều 359 Bộ luật Hình sự 2015.
"Mặc dù con dấu trên giấy là đúng, nhưng lại sai về mặt nội dung, do người được cấp giấy không làm việc tại cơ quan, tổ chức đó và cũng không thực hiện nhiệm vụ được ghi ở trên giấy. Bởi vậy, trong trường hợp này giấy tờ được cấp sẽ được xác định là giấy tờ giả và người cấp giấy tờ giả sẽ bị xử lý hình sự về tội giả mạo trong công tác” - luật sư Cường cho biết.
Đối với người sử dụng giấy đi đường, họ biết đây là giấy không đúng nhưng vẫn dùng để thực hiện hành vi trái pháp luật thì cũng có thể bị xử lý hình sự về hành vi sử dụng giấy tờ giả của cơ quan tổ chức theo Điều 341 Bộ luật hình sự năm 2015.
Theo luật sư Cường, trong trường hợp những người sử dụng giấy đi đường, giấy xét nghiệm COVID-19 giả thì cả người mua và người làm ra giấy này sẽ bị xử lý hình sự về tội làm giả tài liệu, con dấu của cơ quan tổ chức.
“Cụ thể, ở đây người mua đã cung cấp thông tin cá nhân cho các đối tượng thì có thể bị xử lý về hành vi giúp sức trong việc làm giả, vì nếu không có thông tin của họ thì không có giấy tờ giả đó. Còn nếu người mua là người đặt vấn đề, khởi xướng việc làm giả giấy tờ thì sẽ bị xử lý là chủ mưu” – luật sư Cường nhận định.
Cũng theo luật sư Cường, trong trường hợp người dân mua giấy tờ giả về tự điền thông tin cá nhân của mình vào nhằm mục đích thực hiện hành vi vi phạm thì cũng có thể bị xử lý về hành vi làm giả giấy tờ của cơ quan, tổ chức.
“Hành vi làm giả tài liệu, con dấu của cơ quan, tổ chức, cụ thể là từ 6 giấy đi đường hoặc giấy xét nghiệm COVID-19 trở lên sẽ bị xử lý hình sự theo điều 341 Bộ luật Hình sự 2015 và có thể bị xử phạt lên tới 7 năm tù” – luật sư Cường thông tin.
Luật sư Cường khuyến cáo, đừng vì thiếu hiểu biết, cẩu thả hay coi thường pháp luật để đi mua giấy tờ giả rồi khi bị phát hiện thì nhận hậu quả rất nặng có thể bị phạt tù chứ không chỉ là phạt hành chính. Đối với các cơ quan, tổ chức vì lợi nhuận mà cung cấp, bán giấy tờ không đúng đối tượng thì đây là hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng và chắc chắn sẽ bị xử lý hình sự.
Điều 341. Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức
1. Người nào làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức hoặc sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ giả thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt tiền từ 30 triệu đồng đến 100 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 2 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 2 năm đến 5 năm: a) Có tổ chức; b) Phạm tội 2 lần trở lên; c) Làm từ 2 con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác đến 5 con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác; d) Sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng; đ) Thu lợi bất chính từ 10 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; e) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 3 năm đến 7 năm: a) Làm 6 con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác trở lên; b) Sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; c) Thu lợi bất chính 50 triệu đồng trở lên.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng.
Điều 359. Tội giả mạo trong công tác
1. Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 1 năm đến 5 năm: a) Sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, tài liệu; b) Làm, cấp giấy tờ giả; c) Giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 3 năm đến 10 năm: a) Có tổ chức; b) Người phạm tội là người có trách nhiệm lập hoặc cấp các giấy tờ, tài liệu; c) Làm, cấp giấy tờ giả với số lượng từ 2 giấy tờ giả đến 5 giấy tờ giả.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 7 năm đến 15 năm: a) Làm, cấp giấy tờ giả với số lượng từ 5 giấy tờ giả đến 10 giấy tờ giả; b) Để thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm: a) Làm, cấp giấy tờ giả với số lượng từ 11 giấy tờ giả trở lên; b) Để thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm, có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng.